Văn Phòng Phẩm Hà Nội - Cập Nhật các chính sách mới nhất của Văn Phòng Phẩm Hà Nội đang áp dụng tại Hệ thống Website và Địa điểm Kinh Doanh/Bán hàng VPPHanoi.net
Chính sách Thanh toán của Văn Phòng Phẩm Hà Nội
Chính sách Đổi trả hàng của Văn Phòng Phẩm Hà Nội
Chính sách Bảo hành của Văn Phòng Phẩm Hà Nội
Chính sách Hợp tác của Văn Phòng Phẩm Hà Nội
Chính sách Giá bán/Chiết khấu của Văn Phòng Phẩm Hà Nội
Chính sách Quảng cáo trên VPPHanoi.net
Chính sách Bảo mật của Văn Phòng Phẩm Hà Nội
Thông tin/Tài liệu tham khảo thêm Khái niệm về chính sách
Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc khác nhau, từ các tổ chức quốc tế đến từng quốc gia, từ nhà nước đến các đơn vị, tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp,..nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức đó và chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó.
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”
Theo James Anderson: “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm”.
Như vậy, có thể hiểu: Chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình
Chính sách công:
Những chính sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng được gọi là chính sách công. Cho đến nay có nhiều quan điểm về khái niệm này:
William Jenkin cho rằng: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục tiêu đó”. Theo quan điểm của Wiliam N. Dunn thì: “Chính sách công là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước hay các quan chức nhà nước đề ra”. Còn Peter Aucoin lại khảng định: “Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do Chính phủ tiến hành”, B. Guy Peter đưa ra định nghĩa: “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân”,…
Giáo trình chính sách kinh tế – xã hội, các tác giả đưa ra định nghĩa: “Chính sách kinh tế -xã hội là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các đối tượng và khách thể quản lý nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của xã hội”.
Những đặc trưng trong mỗi luận cứ của mối tác giải phản ánh chính sách công từ các góc độ khác nhau, song đều hàm chứa những nội dung thể hiện bản chất của chính sách công, có thể tóm lược một số đặc trung của chính sách công như sau:
– Có một cấp thẩm quyền ban hành
– Mang lợi ích công
– Mọi người đều có quyền tiếp cận (công khai, minh bạch)
– Nhìn chung là bắt buộc thi hành (tuy nhiên cũng có những hình thức không mang tính bắt buộc, thường là các chính sách khuyến khích, hỗ trợ)
– Thường thể hiện dưới dạng văn bản quy phạm pháp luật, liên quan đến nhau và mang tính hành động, tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế – xã hội theo những mục tiêu xác định.
Như vậy : “Chính sách công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế – xã hội theo mục tiêu xác định”.
Ở Việt Nam, thuật ngữ chính sách công còn mới mẻ, thông thường chúng ta quen dùng cụm từ đồng nghĩa: Chính sách của nhà nước hoặc chính sách của Đảng và Nhà nước, vì ở nước ta, Đảng Cộng sản là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc vạch ra đường lối, chiến lược, các định hướng chính sách, đó chính là những căn cứ chỉ đạo để Nhà nước ban hành các chính sách công. Như vậy, về thực chất, các chính sách công là do Nhà ban hành nhưng các chính sách này chính là cụ thể hóa đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân ta. Từ góc độ chủ thể hoạch định chính sách giữa Đảng và Nhà nước mà có các thuật ngữ: Đường lối chính sách, Chủ trương chính sách, Cơ chế chính sách, Chế độ chính sách.
Chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động:
Đến nay, khái niệm chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau xuất khẩu lao động vẫn chưa được chuẩn hoá, chưa có một nhà khoa học hay tổ chức lý luận nào đưa ra khái niệm chuẩn mực, nhiều tác giả có các bài viết trên các báo hay tạp chí ngôn luận gọi đây là “chính sách hậu xuất khẩu lao động” khi luận bàn những vụ việc hay vấn đề liên quan đến nội dung này. Theo chúng tôi có thể đưa ra khái niệm sau đây:
Chính sách sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ: là tổng thể các quan điểm, nguyên tắc và biện pháp của nhà nướcnhằm tổ chức khai thác, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực sau khi hoàn thành hợp đồng lao động ở nước ngoài trở về.
Như vậy, khái niệm trên hàm chứa hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, bao gồm hoạt động xây dựng và ban hành văn bản liên quan đến hoạt động quản lý và sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ, từ các đạo luật, nghị định, quyết định, chỉ thị, hiệp định, thông tư, văn bản thông báo và hướng dẫn, hợp đồng và ghi nhớ hợp đồng, thoả thuận, phương án,…mang tính bắt buộc thực hiện hoạt động sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ.
– Các quyết định về tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý để triển khai thực hiện sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ.
Bộ máy quản lý nguồn nhân lực sau XKLĐ là tổ chức nằm trong hệ thống điều hành của nhà nước để thực thi nhiệm vụ quản lý, bộ máy có các vị trí cho từng bộ phận, từng con người cụ thể với chức năng rõ ràng để hoàn thành những nhiệm vụ cụ thể trong mục tiêu đặt ra, bộ máy này có thể theo hệ thống từ trung ương đến địa phương, cả trong và ngoài nước với cơ chế, biên chế cứng kết hợp với biên chế mềm về tổ chức nhân sự.
– Các quy định về quản lý, khai thác, thu hút, tuyển chọn, sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ.
Đây thực chất là các chế độ, cơ chế hoạt động của bộ máy theo chức năng, nhiệm vụ cụ thể trong hoạt động quản lý và sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ, các quy định này sẽ liên quan đến hàng loạt các tổ chức, đơn vị tham gia hoạt động xuất khẩu lao động và cơ chế phối hợp cả trong và ngoài nước, kể cả các tổ chức thực hiện các chính sách liên quan đến hoạt động XKLĐ.
– Các văn bản quy định về chế độ liên quan đến đời sống kinh tế, tài chính, chính trị, xã hội của người lao động sau khi XKLĐ về nước, từ sinh hoạt đoàn thể, đảng, đoàn, hộ khẩu, đăng ký tài sản, ưu tiên vùng – miền, trợ cấp, hỗ trợ, ưu đãi,… đối với người lao động tái định cư sau khi hoàn thành hợp đồng lao động về nước.
– Các văn bản quy định về tổ chức và hoạt động trong đào tạo lại, bồi dưỡng nghề nghiệp, bảo vệ, thông tin, kiểm tra, thanh tra, đánh giá, điều chỉnh nguồn nhân lực, liên quan đến khai thác và sử dụng nguồn nhân lực sau XKLĐ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét